MỞ RỘNG > Tình huống Luật hình sự phần riêng nhóm 2

Tình huống Luật hình sự phần riêng nhóm 2

Nhóm 2 - 109/A3

Tất cả các vụ án được giải quyết theo Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017

TÌNH HUỐNG LUẬT HÌNH SỰ PHẦN RIÊNG

 

NHÓM 1

Vụ án 1:

Năm 2008, Vân có thời gian chung sống như vợ chồng với chị Lê Thị Cảm, sinh năm 1988 và có một con chung, đến năm 2010 do phát sinh mâu thuẫn với mẹ chồng, nên chị Cảm chấm dứt quan hệ với Vân về nhà mẹ ruột sống, rồi kết hôn với anh Nguyễn Văn Sữa. Tức giận vì bị chị Cảm phụ tình, bỏ đi kết hôn với người khác mà lại còn nhiều lần cùng với chị ruột chặn đường đánh, nên ngày 27-11-2010, trong lúc chạy xe hon da ôm, Vân dừng xe ở nhà anh Hồ, gần nhà mẹ chị Cảm để đổ xăng, thì thấy chị Cảm ngồi ở phía trước nhà, sẵn có 1 con dao Thái do khách bỏ quên trong bọc nylon, Vân lấy ra đâm nhiều nhát vào người làm chị Cảm ngã quỵ, chị Cảm tri hô, anh Hồ cùng mọi người đến can ngăn và đưa chị Cảm đi cấp cứu kịp thời, tỷ lệ thương tật 66%. Còn Vân nhanh chóng lên xe bỏ trốn ngay sau đó, đến ngày 29-11-2010 ra đầu thú tại Công an huyện An Phú).

.Anh (chị) hãy xác định cảm phạm tội gì? Khoản nào?

 

 

Vụ án 2

            Vụ án xảy ra vào khoảng 1h sáng ngày 30/8/2016, khi vợ chồng anh L. chị H. đang ngủ cùng con nhỏ thì bị bất ngờ một nam thanh niên đầu đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang, xông vào nhà, dùng dao nhọn khống chế anh L., bắt chị H phải tự dùng dây dù mà hung thủ đã chuẩn bị sẵn mang theo, trói anh L. Sau đó, đối tượng bắt anh L. và cháu bé nhốt vào buồng khác rồi bắt chị H. ra giường ở phòng khác, thực hiện hành vi đồi bại đối với chị H. Khi anh L. tự cởi trói được, xông vào dùng gậy đánh hung thủ để cứu vợ thì bị đối tượng chống trả, dùng dao đâm nhiều nhát, gây thương tích nặng. Gia đình anh L. chỉ được giải thoát khi Công an xã Long Sơn phối hợp với Đồn Công an Chợ Bến, các đơn vị nghiệp vụ Công an huyện Lương Sơn nhanh chóng có mặt tại hiện trường, vây bắt hung thủ gây án.

Tại trụ sở Công an, bước đầu đối tượng khai nhận là Nguyễn Thanh Trường, chưa có vợ. Do gia đình có hoàn cảnh khó khăn, Trường học hành không đến nơi đến chốn, thường kiếm sống bằng cách đi làm thuê. Gia đình Trường ở xã giáp ranh với gia đình nhà anh L, chị H, từ nhà Trường đến nhà nạn nhân khoảng 2km. Do thường xuyên đi lại qua khu vực này, Trường phát hiện một số gia đình nhà không đóng cửa vào buổi tối nên nảy sinh ý định xấu. Chiều 30-8, trước khi gây án, Trường đã chuẩn bị một dao nhọn, 1 đoạn dây và khi đi hắn cẩn thận đội mũ bảo hiểm, bịt mặt bằng khẩu trang để tránh bị phát hiện.

Khi đã nửa đêm, đợi mọi người ngủ say, Trường đi bộ đến nhà anh L. Thấy nhà anh chỉ khép hờ cửa, Trường lẻn vào phát hiện vợ chồng anh L. cùng con đang ngủ trên giường. Trường đã dùng dao khống chế anh L, bắt chị H. tự trói chồng, sau đó Trường dồn 2 bố con anh L. vào một buồng. Trường bắt chị H. tự cởi quần áo và thực hiện hành vi thú tính nhưng do anh L. tự cởi trói được đã lao ra dùng gậy đánh Trường. Do chiếc gậy anh L. vớ được chỉ là gậy nhựa nên Trường dễ dàng tránh được và dùng dao đâm anh L. gây thương tích. Không may cho tên yêu rây xanh, khi hắn đang có ý định tẩu thoát thì bị lực lượng Công an và nhân dân bắt giữ. 

Anh (chị) hãy định tội cho Trường và phân tích.

 

NHÓM 2

Vụ án 1:

Đầu năm 2010, bà Lưu Thị Ang (SN 1957, ở Thường Tín, Hà Nội) nhờ ông Đặng Văn Mạn (SN 1954) làm thủ tục thế chấp thửa đất 187 m2 để vay ngân hàng 500 triệu đồng. Đến cuối năm 2010, do không có tiền trả nợ ngân hàng nên bà Ang thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Mạn diện tích 93,5m2 đất thế chấp tại Ngân hàng với giá tiền 500 triệu đồng. Ông Mạn đã thanh toán số tiền 500 triệu đồng mua đất với bà Ang, sau đó bà Ang cầm số tiền trả cho Ngân hàng, rối lấy sổ đỏ về đưa cho ông Mạn giữ.

Một thời gian sau, bà Ang tiếp tục thỏa thuận bán cho Mạn ngôi nhà và diện tích đất còn lại với giá 1,4 tỷ đồng. Sau khi mua ngôi nhà nằm trên diện tích đất 187 m2 của bà Ang, ông Mạn vẫn cho bà Ang ở nhờ, song ông Mạn đã làm thủ tục sang tên sổ đỏ mang tên vợ chồng mình.

Đến 12/2011, vợ chồng ông Mạn bán lại ngôi nhà trên cho vợ chồng anh Nguyễn Văn Chung (SN 1980). Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thường Tín đã xác nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Chung.

Mua nhà xong, anh Chung đã yêu cầu bà Ang chuyển đi chỗ khác để trả lại ngôi nhà và đất, nhưng bà Ang không chuyển đi vì cho rằng chỉ bán cho ông Mạn 1/2 diện tích đất. Việc này khiến hai bên xảy ra mâu thuẫn.

Đến ngày 20/4/2012, anh Chung gửi đơn đề nghị giải quyết tranh chấp giữa anh và bà Ang. Anh Chung đã nhiều lần đến gặp và yêu cầu bà Ang chuyển đi nơi khác để trả lại nhà cho anh ta, nhưng bà Ang không chuyển.

Sau đó, anh Chung cùng một số người trong gia đình và anh em họ hàng đã đuổi bà Ang và mẹ đẻ và hai cháu ngoại bà Ang ra khỏi chỗ ở. Khi đến nhà, anh Chung nói với bà Ang: "Đã nhiều lần cháu lên đòi nhà rồi, hôm nay cô chuyển đi thì cháu vẫn thuê nhà cho cô ở", nhưng bà Ang không đồng ý. Sau đó, anh Chung và người nhà đã bê chuyển đổ đạc, tài sản của gia đình bà Ang ra khỏi nhà, để ngoài đường. Bà Ang đã đi trình báo với công an xã.            

Vụ này anh (chị) giải quyết thế nào?

 

 

Vụ án 2

Ông L.T.H (SN 1971, quê Bạc Liêu, trú huyện Bình Chánh) là em kết nghĩa của ông Nguyễn Văn Út. Thời gian gần đây, ông Út nghi ngờ vợ mình là bà H.T.K.L (SN 1965, ngụ huyện Bình Chánh) có quan hệ tình cảm với ông H. Trưa 17/11, ông Nguyễn Văn Út (SN 1966, ngụ ấp 4, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh) bàn bạc với 3 người con ruột và 2 người con rể lên kế hoạch tổ chức đánh ghen.

Trong khi ông H đang ngồi ở nhà thì cha con ông Út xông vào khống chế bắt giữ, đưa về nhà ông này. Tại đây, ông Út cùng 1 người con rể dùng dây xích trói ông H ở một gốc cây trước nhà mình. Sau đó, lần lượt 6 người thay phiên nhau đánh đập ông H. 

Vụ việc được người dân trong xóm phát giác, báo công an xã Đa Phước. Công an xuống “giải cứu” ông H. Sau đó, tạm giữ ông Út cùng 5 người con bàn giao cho công an huyện Bình Chánh điều tra, xử lý. 

Hỏi xử lý  thế nào?

 

 

NHÓM 3

 

Vụ án 1

   Từ năm 2004 vợ chồng Nhân - Nuôi mở tiệm vàng Tiết Lai Hưng tại chợ Trà Quýt (Huyện Mỹ Tú, Sóc Trăng), được cấp giấy chứng nhận kinh doanh mua bán vàng bạc, dịch vụ cầm đồ và bán điện thoại di động, nhưng đã tự ý đứng ra tổ chức huy động tài sản của hàng trăm người bằng cách nhận vay tiền, vàng với lãi suất trên 2%/tháng. Đến năm 2005, tổng số tiền Nhân - Nuôi vay lên đến hơn 7,7 tỉ đồng, 32 lượng vàng SJC và gần 54 lượng vàng 24K.

Ngoài ra, Nhân - Nuôi còn nhận cầm vàng của gần 200 người khác rồi nấu lại thành vàng cục để mang ra TP Sóc Trăng bán lại kiếm lời. Từ 2004 - 2008, tổng số tiền, tài sản mà Nhân - Nuôi nợ người dân gần 8 tỉ đồng và 100 lượng vàng. Do mất khả năng chi trả nên cả hai tuyên bố vỡ nợ, đóng cửa tiệm vàng. Cuối năm 2008, viện lý do đi TP.HCM trị bệnh, vợ chồng chủ tiệm vàng Tiết Lai Hưng rời khỏi địa phương một thời gian, nhưng thấy nhiều chủ nợ kéo đến nhà hăm he làm dữ nên quay về quê và bị công an “hỏi thăm sức khỏe”.

Anh (chị) tính sao vụ này?

           

 

Vụ án 2

            Sau khi nhập cảnh vào Việt Nam, bà Anna mở hai tài khoản cá nhân tại Ngân hàng TMCP Đông Á, Chi nhánh Vũng Tàu (gọi tắt là Ngân hàng Đông Á), gồm: tài khoản VND số 056012448290006, mở ngày 24-7-2014 và tài khoản ngoại tệ số 056012448290007, mở ngày 10-12-2014. Ngày 9-12-2014, Công ty Keo Trading Limited (tại Nhật Bản) chuyển vào tài khoản VND cho bà Anna số tiền 1.570 USD. Ngày 17-12-2014, Công ty Keo Trading Limited tiếp tục chuyển vào tài khoản VND cho bà Anna số tiền 570 USD. Ngoài ra, hai tài khoản kể trên không nhận bất cứ số tiền nào từ nước ngoài hoặc trong nước chuyển vào.

Ngày 18-12-2014, bà Anna đến Ngân hàng Đông Á rút số tiền 570 USD (theo tỷ giá tại thời điểm rút tiền là 21.307 đồng/USD), tương đương 12.145.000 đồng. Tuy nhiên, do nhầm lẫn nên nhân viên trực tiếp làm thủ tục đã lập chứng từ chi trả cho bà Anna số tiền 12.145 USD (tương đương 259.666.100 đồng). Căn cứ thủ tục được lập, Trưởng phòng vận hành Ngân hàng Đông Á đã ký chứng từ chi trả tiền cho bà Anna mà không kiểm tra. Sau đó, chứng từ kể trên được chuyển đến bộ phận kho quỹ để chi trả cho bà Anna số tiền 259.660.100 đồng. Như vậy, Ngân hàng Đông Á giao thừa cho bà Anna số tiền 247.515.000 đồng, so với số tiền thực mà bà Anna được nhận là 12.145.000 đồng, tương đương 570 USD.

Sau khi bà Anna nhận tiền và ra về, Ngân hàng Đông Á phát hiện có sự nhầm lẫn trong việc chi trả tiền nên đã liên lạc và yêu cầu bà Anna trả lại số tiền 247.515.000 triệu đồng nhưng bà Anna không hợp tác. Ngày 12-1-2015, Ngân hàng Đông Á gửi văn bản yêu cầu bà Anna hoàn trả lại số tiền nhầm lẫn kể trên nhưng bà này vẫn không thực hiện. Vì vậy, Ngân hàng Đông Á đã gửi đơn đến cơ quan công an tố cáo bà Anna.

Làm việc với cơ quan điều tra, bà Anna thừa nhận Ngân hàng Đông Á đã chi trả cho bà số tiền 259.660.100 triệu đồng vào ngày 18-12-2014. Theo đó, cơ quan điều tra yêu cầu bà Anna trả lại số tiền 247.515.000 triệu đồng cho Ngân hàng Đông Á nhưng bà này vẫn không thực hiện. Đồng thời, bà Anna có văn bản yêu cầu Ngân hàng Đông Á bồi thường thiệt hại với lý do, ngoài việc Công ty Keo Trading Limited hai lần chuyển số tiền 1.570 USD và 570 USD như vừa nêu trên còn có Công ty Global Media (tại Nga) chuyển vào tài khoản VND (số 056012448290006) của bà số tiền 11.575 USD vào ngày 15-12-2014. Tuy nhiên, bà Anna không cung cấp được chứng từ, tài liệu thể hiện việc Công ty Global Media chuyển cho bà số tiền này.

Ngày 5-2-2015, cơ quan điều tra gửi thông báo mời làm việc đối với bà Anna nhưng bà này vẫn không có mặt và bỏ đi khỏi nơi tạm trú (18 Nguyễn Hữu Cầu, phường 3, TP.Vũng Tàu).

Nếu tóm được bà này, anh (chị) sẽ làm gì nếu căn cứ theo pháp luật Việt Nam?

 

 

 

NHÓM 4

Vụ án 1

Nguyễn Bảo Ngọc, 22 tuổi (Q.Hoàn Kiếm, Hà Nội), sau khi đi thực tập tại một bệnh viện lớn ở Hà Nội, từ cảm mến tài năng, cô đã yêu một người đàn ông lớn hơn 25 tuổi, là bác sĩ giỏi của bệnh viện. Anh có vợ và hai con nhưng đã ly hôn. Các con anh đều trưởng thành. Vợ chồng anh lại là bạn của bố mẹ cô. Vì thế, bố mẹ cô phản đối quyết liệt mối quan hệ này, nói nếu lấy anh ấy, nhất định sau này cô sẽ khổ, vì anh chỉ lợi dụng cô, không yêu cô mà chỉ yêu cái gia tài của gia đình cô vì nhà  cô rất giàu có. Bố mẹ cô đã tìm mọi cách phong tỏa để cô không có cơ hội gặp gỡ anh. Bố Ngọc sẵn sàng nghỉ làm để trực tiếp lái xe đưa đón cô đến trường (tài xế riêng của gia đình bố cũng không tin), tịch thu điện thoại của cô, cắt đường truyền internet vào phòng riêng, kiểm soát chặt chẽ thư từ theo đường bưu điện. Cô sống trong gia đình mình mà chẳng khác một người tù bị giam lỏng. Cô đã xin phép bố mẹ cho ra ngoài thuê nhà ở, nhưng mẹ cô bảo: “Con muốn ra ngoài thì hãy bước qua xác của mẹ” nên cô không dám ra ngoài.

Hỏi, cha me Ngọc có phạm tội không?

 

 

Vụ án 2

            Đỗ Quốc Quý cưới Nguyễn Thu Dậu và đã có hai con gái chung. Quý tuyên bố với Dậu là sẽ đi cưới người khác để có con trai nối dõi tông đường. Quân tử nhất ngôn, qua mai mối, Quý đã quen được Phạm Thị Minh Hà, người xã bên. Hai người đã yêu nhau.

Mặc cho vợ con can ngăn, dư luận phản đối, Quý vẫn sang nhà Hà sống chung với Hà như vợ chồng. Một năm sau, hai người đã có một đứa con trai.

Để có cơ sở chung sống với nhau, đảm bảo con có cha, Quý đến gặp Lê Công Cẩn (Chủ tịch xã lúc đó) là bạn nối khố của Quý nhờ Cẩn giúp làm giấy kết hôn cho mình, kèm theo món quà là một TV Sony mới khui thùng. Ban đầu, Cẩn từ chối vì biết đó là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, thấy Quý và Hà đã có con chung với nhau, vợ cả và các con cũng không ai kiện cáo gì nên Cẩn làm liều cấp giấy đăng ký kết hôn cho Quý và Hà.

Sau khi đăng ký kết hôn rồi, Quý đưa Hà về chung sống với mình trước mặt Dậu và các con. Trong thời gian chung sống, ỷ mình còn trẻ lại sinh con trai cho chồng, Hà lười lao động mà còn hay chửi bới chị Dậu và các con của chị Dậu. Quá bức xúc, chị Dậu đã nhờ đến cơ quan của phụ nữ mà người đàn ông rất sợ, đó là Hội phụ nữ. Với sự giúp đỡ của Hội phụ nữ xã, chị Dậu đã kiện hành vi của chồng mình đến Tòa án. Tòa án đã quyết định hủy hôn nhân trái pháp luật này.

Quý tức giận thường xuyên đánh chửi chị Dậu, nhiều lần không cho chị ăn cơm, nhốt chị trong buồng không cho ra ngòai nhiều ngày làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của chị. Có lần, Quý còn cởi quần áo của chị Dậu đuổi ra ngòai đường ban ngày mặc cho các con gái la khóc, van xin. Bên cạnh đó, Quý bất chấp quyết định của Tòa án đã hủy hôn nhân trái pháp luật, vẫn tiếp tục chung sống với Hà như cũ trong ngôi nhà của mẹ con chị Dậu.

Anh (chị) hãy định tội cho các bị can trong vụ án.

 

 

NHÓM 5

Vụ án 1:

Các bị can chủ mưu trong vụ án này là Đỗ Đức Hưng (60 tuổi, ngụ Q.Hai Bà Trưng, TP.Hà Nội), nguyên Giám đốc Agribank Hồng Hà và Trịnh Khánh Hồng (49 tuổi, ở Q.Nam Từ Liêm) - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tân Hồng (Công ty Tân Hồng).

Theo cáo trạng, năm 2009, Công ty Tân Hồng được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt quy hoạch chi tiết trồng rừng nguyên liệu với hơn 4.700 ha. Mặc dù công ty liên tục thua lỗ nhưng Hồng chỉ đạo lập báo cáo tài chính có lãi và được Hưng phê duyệt, cho vay 20,5 triệu USD. Tuy nhiên, Hồng không dùng tiền thực hiện dự án mà sử dụng vào mục đích riêng. Sau đó, tạo dựng ra 965 chứng từ chi tiền khống cho các hộ dân trồng rừng. Đến nay, toàn bộ số tiền Hồng đã vay từ ngân hàng không còn khả năng thanh toán.

Để có tiền trả nợ, Hồng cùng với các bị can trong vụ án đã gian dối, sử dụng các chứng thư bảo lãnh không hợp pháp qua đó chiếm đoạt của các doanh nghiệp hơn 281 tỉ đồng. Đồng thời câu kết với 4 doanh nghiệp khác lập ra các hồ sơ khống để vay vốn ngân hàng nhằm mục đích trả các khoản nợ cũ, qua đó chiếm đoạt hơn 201 tỉ đồng.

Thời điểm này Agribank siết chặt quy định về xử lý nợ xấu. Nếu chi nhánh để nợ từ 10% trở lên thì giám đốc chi nhánh sẽ bị kỷ luật, thậm chí mất chức nên Hưng và Hồng thống nhất với nhau tạo điều kiện cho Hồng thực hiện các hợp đồng mua bán hàng trả chậm, huy động vốn. Còn Hưng ký các hợp đồng bảo lãnh thanh toán giúp Hồng. Tổng cộng Hưng đã ký 15 chứng thư bảo lãnh thanh toán không đúng quy định của nhà nước, tạo điều kiện cho Hồng lừa đảo hơn 281 tỉ đồng của doanh nghiệp. Cơ quan tố tụng xác định Hưng chỉ đạo cấp dưới cho vay đảo nợ gây thiệt hại cho nhà nước 581,7 tỉ đồng.

Tính sao vụ này?

 

 

Vụ án 2:

            Xí nghiệp cầu đường X ký hợp đồng mua của cửa hàng rau quả chợ Hôm 2000 chai bia Hà Nội với giá 6.500 đồng/chai (không kể tiền vỏ chai). Xí nghiệp X đã chuyển 14 triệu đồng cho cửa hàng, cửa hàng trưởng đã trao số tiền này cho Lê Văn Dũng tìm mua hàng để giao cho Xí nghiệp X theo hợp đồng.

            Dũng đã nhờ Nguyễn Thị Hạnh mua bia chai Hà Nội và thỏa thuận giá 6.000 đồng/chai. Vì không có bia giao một lúc nên Hạnh đã giao làm nhiều lần cho Dũng. Dũng đã giao đủ số bia cho Xí nghiệp X. Dũng báo đã mua bia với giá 6.300 đồng/chai và chiếm đọat số tiền chênh lệch là 600.000 đồng.

            Vài ngày sau khi nhận được bia, Xí nghiệp X đã phát hiện bia đó không phải là bia Hà Nội nên đã báo cho cửa hàng rau quả chợ Hôm biết. Vì vậy công an đã vào cuộc. Qua điều tra, cơ quan công an phát hiện Hạnh đã dùng bia hơi vi sinh (bia lên cơn) đóng vào chai bia Hà Nội rồi dùng nhãn bia Hà Nội dán vào chai giao cho Dũng.

            Theo anh (chị) có ai phạm tội trong vụ này không? Tội gì (nếu có)?

 

NHÓM 6

Vụ án 1

Ngày 7/8/2014, trong khi làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực đường Vực Trô- BaiBai đoạn chạy qua xã Xuân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, Tổ tuần tra bảo vệ rừng (thuộc Kiểm lâm VQG Phong Nha, Kẻ Bàng) đã phát hiện hai đối tượng mang theo 2 bao tải đi từ trong rừng ra có nhiều dấu hiệu nghi vấn. Khi phát hiện lực lượng chuyên trách, 2 đối tượng đã bỏ chạy và để lại hiện trường 2 bao tải trong đó có 10 cá thể voọc chà vá chân đỏ, 1 cá thể vượn đen má trắng sêki, một cá thể khỉ mặt đỏ, những cá thể này đều bị giết, lấy hết nội tạng, não và được sấy khô, 1 cá thể rùa sa nhân còn sống nặng 0,2kg cùng với 19 viên đạn thể thao.

            Qua khoanh vùng, xác minh ban đầu thì những đối tượng này là người địa phương. Các đối tượng sử dụng súng thể thao bắn chết các cá thể voọc, khỉ nói trên rồi lấy não, nội tạng nhằm bảo quản được lâu ngày.

Xác định đây là một sự việc có dấu hiệu hình sự, Kiểm lâm VQG Phong Nha - Kẻ Bàng đã lập văn bản trưng cầu giám định và đã có kết quả như nhận định ban đầu.  

Cũng theo ông Tịnh, voọc là loài đặc hữu, nguy cấp nhưng lại rất dễ săn trộm, loài này khi bị bắn thì cả đàn không bỏ chạy mà chỉ lấy lá cây che mặt và đầu, các thợ săn dễ dàng phát hiện thấy chúng qua chiếc đuôi dài không được che chắn nên có thể triệt hạ cả đàn lớn.

            Qua quá trình điều tra, Công an huyện Bố Trạch đã bắt được hai tên đã bỏ chạy khi đó là Trần Thượng Hiền và Lý Sao Na.

            Anh (chị) hãy tính hai tên này.

           

 

Vụ án 2

Ngày 4/9/2015, Lô Văn Dụ (trú tại bản Pảo 2, xã Quang Phong) được một người tên là Hòa ở huyện Quỳnh Lưu đến đặt vấn đề mua gỗ Pơ Mu. Hai bên thỏa thuận, Dụ có trách nhiệm huy động nhân lực vào rừng khai thác gỗ rồi thu mua, vận chuyển ra cầu bản Tang. Tại đây, Hòa sẽ mua với giá 12 triệu đồng/m3. Và Hòa sẽ cho người có tên là Thanh đến để cùng Dụ kiểm tra, đo đếm, thu mua, tập kết và thanh toán (có đưa số điện thoại của Thanh để Dụ liên lạc).

Lô Văn Dụ sau đó đã rủ Sầm Văn Thắng (cùng trú bản Pảo 2) tìm người khai thác gỗ. Vài ngày sau, Bùi Văn Thanh (trú bản Quyết Tiến, Tam Hợp, Quỳ Hợp) đến gặp Dụ và Thắng để thống nhất việc thu gom gỗ Pơ Mu. Giá thu mua gỗ tại cầu bản Tang là 9 triệu đồng/m3; còn nếu mua tại khe Huống (thuộc Khu BTTN Pù Huống) là 6 triệu đồng/m3; tiền công vận chuyển từ khe Huống ra cầu bản Tang là 1,5 triệu đồng/m3; sau khi tập kết được gỗ, Thanh sẽ có trách nhiệm đưa gỗ về xuôi bán lấy tiền lãi chia nhau.

Biết Dụ, Thắng và Thanh thu mua gỗ Pơ Mu, Sầm Văn Quynh (trú bản Quyn, Quang Phong) đã gặp Dụ, ứng trước 2 triệu đồng để mua lương thực, thực phẩm và các đồ dùng khai thác gỗ. Quynh đã vào rừng Huôi Huống (thuộc Khu BTTN Pù Huống) cưa đổ 2 cây Pơ Mu, xẻ thành 42 tấm gỗ, dài từ 1,9 – 2,2m, rộng 30cm, dày 10 cm. Sau đó, Quynh đã báo tin với Dụ và được ứng thêm 1,5 triệu đồng mua móc sắt, dây thừng để thực hiện vận chuyển gỗ ra khỏi rừng. Ngày 20/9/2015, Quynh thuê em là Sầm Văn Tiến và anh Lô Văn Quy (trú bản Tin Cắng, Quang Phong) chuyển gỗ xuôi theo khe Ton tập kết tại cầu bản Tang.

Để thu mua thêm gỗ, ngày 18/9/2015, Dụ đã gặp Sầm Văn Chung (trú bản Pảo 1, Quang Phong) đề nghị khai thác gỗ về bán. Chung đồng ý và rủ thêm Lương Văn Tiến, Sầm Văn Tùng là người cùng bản vào rừng Huôi Huống hạ 1 cây Pơ Mu, cắt xẻ được 33 tấm dài 2,2m, rộng từ 30 – 35cm, dày 10 – 12cm. Sau đó, 3 đối tượng đã thuê Lô Văn Quy dùng trâu kéo gỗ tập kết tại khe Hôi Huống. Ngày 26/9, Sầm Văn Chung bán 18 tấm gỗ Pơ Mu cho Dụ, Thanh, Thắng ở khe Huôi Huống với giá 6 triệu đồng/m3. 15 tấm còn lại, Chung cùng Tiến và Tùng tiếp tục vận chuyển ra cầu khe Tạng để bán cho Dụ với giá 9 triệu đồng/m3.

Ngoài ra, trong hai ngày 25 - 26/9, tại khe Huôi Huống các ông Vi Văn Trung, Lô Văn Thương, Sầm Văn Quê, cùng trú tại xã Quang Phong, và một người không rõ tên tuổi đã bán cho Dụ, Thanh, Thắng 28 tấm gỗ Pơ Mu với giá 6 triệu đồng/m3. Sau khi mua được gỗ, cả ba thuê người vận chuyển theo khe Ton tập kết gỗ ở cầu khe Tạng. Thanh gọi điện thoại cho Bùi Duy Sơn (trú tại xóm 7, xã Tân Sơn, Quỳnh Lưu) lấy xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, biển kiểm soát 37C-101.80 đến để chở gỗ đi tiêu thụ.

Kiểm tra số gỗ thu giữ, Hạt Kiểm lâm Quế Phong xác định có 133 tấm, tổng khối lượng gần 11 m3; trong đó có 128 tấm là gỗ Pơ Mu, còn lại là gỗ thông thường (quy gỗ tròn là hơn 17m3). Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Phong cũng đã thực hiện trưng cầu giám định, xác định là gỗ Pơ Mu, thuộc nhóm IIA, tại “Danh mục động, thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm”. Và qua khám nghiệm hiện trường xác định, địa bàn các đối tượng khai thác gỗ trái phép thuộc các khoảnh 8 và 9, tiểu khu 150, Khu BTTN Pù Huống, địa phận xã Quang Phong.

Hãy định tội và phân tích hành vi của các bị can trong vụ án.

 

NHÓM 7

 

Vụ án 1

Do ở cùng xã, quen biết nhau nên khoảng đầu tháng 10/2010, hai anh em Nguyễn Đình Thái (SN 1974) và Nguyễn Đình Ngọc (SN 1979, thôn Cồn Mành, Bàn Đạt, Phú Bình, Thái Nguyên) rủ Công vào khu vực Khe Đổ 1 (xã Đăk Pring, Nam Giang, Quảng Nam) để cùng khai thác vàng trái phép. Công nhận lời và cùng vào Quảng Nam làm với anh em Thái.

            Sáng 3/1/2011, Công và Ngọc đi khai thác vàng tại khu vực Khe Đổ 1 như thường ngày, còn Thái mệt nên nghỉ ở lán trại. Trong quá trình làm việc, Công nhiều lần bị Ngọc la mắng do lười biếng nên lợi dụng lúc Ngọc đang ngồi dưới suối đãi vàng, Công nhặt lấy con rựa để cạnh bờ suối chém chết Ngọc. Đến khoảng 11 h cùng ngày, Công cầm con rựa gây án về lại trại.

            Công nói với Thái, Ngọc đi cùng với một người ở Thái Nguyên đến khu vực khai thác vàng nào không rõ. Chiều cùng ngày, Công không đi làm mà ở nhà bữa củi, nấu cơm và cùng ăn uống, nghỉ ngơi trong lán trại với Thái.

            Đến khoảng 5h30 ngày 4/1, Công thức dậy nấu cơm sáng. Trong lúc nấu cơm, Công luôn nghĩ trước sau gì việc giết Ngọc anh Thái cũng biết và mình sẽ bị bắt hoặc cũng bị anh Thái giết chết, nên Công nảy ý định phải giết luôn anh Thái. Với suy nghĩ trên, Công lấy con rựa đã dùng giết Ngọc để giết Thái.

Anh Thái vùng dậy bỏ chạy ra khỏi lán trại, đồng thời gỡ lưỡi rựa bị Công chém trán mình rồi ném về phía Công nhưng không trúng. Công nhặt lưỡi rựa truy sát anh Thái. Thái vừa chạy vừa kêu cứu nên Công sợ mọi người phát hiện đã vứt lưỡi rựa bỏ chạy về lại lán trại.

            Công khai, khi về lán trại, vì biết Thái chôn ma túy gần khu vực bếp nên Công đào lên lấy được một gói hêroin. Sau khi lấy được số ma túy trên, Công bỏ trốn đến khu vực Suối Ring (Đăk Pring, Nam Giang).

            Tại đây, Công đã hai lần lấy số ma túy trên ra hít và bán cho một người đàn ông lạ (không rõ lại lịch) 1,762g được 4 triệu đồng, còn lại 0,881g Công cất giữ để bán và sử dụng sau này.

            Khoảng 9h ngày 6/1, khi Công đi đến khu vực thôn 4 (xã Phước Đức, Phước Sơn, Quảng Nam) thì bị lực lượng phòng chống ma túy của Công an huyện Phước Sơn bắt quả tang và thu giữ trên người Công số tiền có được do bán ma túy và 0.881g hêroin.

            Tại bản giám định pháp y, Nguyễn Đình Ngọc chết do đa chấn thương, Nguyễn Đình Thái bị thương tích 64%.

            Anh (chị) hãy định tội và khung hình phạt cho Công.

 

 

Vụ án 2

Khoảng 17 giờ ngày 14/12/2005, Cứ A Toản (trú tại: xã Mường Than – huyện Than Uyên – Lai Châu) đi xe máy đến nhà em gái là Cứ Thị Hoa, thuộc xã Mồ Dề, huyện Mù Cang Chải, Yên Bái. Tại đây, Toản gặp, nói chuyện và đồng ý tìm người tiêu thụ heroin cho Giàng Thị Dinh và Sùng Thị Sua (đối tượng từ huyện Điện Biên - tỉnh Điện Biên sang) với giá chín triệu đồng/lạng tiểu ly và hẹn khi nào bán được heroin thì mang tiền trả cho Dinh và Sua.

Dinh đưa cho Toản một gói heroin, nói là 1,9 lạng tiểu ly. Toản nhận heroin, đi xe máy đến xã Minh Lương, huyện Văn Bàn, Lào Cai bán được 19 triệu đồng và về đưa cho Dinh 18 triệu đồng.

Hôm sau, ngày 15/12/2005, Dinh lại đưa cho Toản một gói heroin nặng 4,6 lạng tiểu ly. Toản lại mang số heroin trên đến xã Minh Lương bán được một lạng tiểu ly, với giá 10 triệu. Còn 3,6 lạng, Toản mang về cất giấu trong hang đá gần nhà mình. Gặp Dinh, Toản nói mới bán được một lạng tiểu ly, đưa cho Dinh 10 triệu đồng.

Đến ngày 16/12/2005, Toản rủ Dinh và Sua về Than Uyên, Lai Châu để bán nốt số heroin còn lại. Đi đến Than Uyên, Toản dừng xe nói: Số heroin mà Dinh đưa hiện không bán được, Dinh và Sua cứ về Điện Biên trước đi khi nào bán được thì Toản sẽ nhắn sang lấy tiền. Nhưng Dinh và Sua nói: Cố gắng bán hết số heroin đó thì Dinh và Sua mới về Điện Biên. Lúc này, Toản nảy sinh ý định giết Dinh và Sua để chiếm đoạt số heroin còn lại.

Để thực hiện ý định phạm tội đó, Toản về nhà lấy cục hóa chất NaCN (là loại chất rất độc, dùng trong đãi vàng) rồi giả vờ đưa Dinh và Sua đến chợ Bình Lư - huyện Tam Đường để tìm người tiêu thụ heroin. Đến nơi, Toản đi vào chợ rồi quay ra nói dối là không bán được heroin, nhằm đưa Dinh và Sua quay lại Than Uyên để đầu độc.

Trên đường về Than Uyên, Toản vào một quán ven đường mua ba quả trứng luộc, hai gói kẹo, mấy chiếc bánh gai (nhằm tạo lý do ăn dọc đường) và 500ml rượu. Khi đi đến khu vực đồi Nậm Tàng thuộc xã Bản Bo, huyện Tam Đường, Toản dừng xe cạnh lề đường và rủ Dinh và Sua lên lưng chừng đồi cách đường khoảng 100m ăn trưa.

Toản lấy chai rượu ra, bí mật bỏ vào cục hóa chất NaCN, lắc cho tan, giả vờ uống một ngụm rồi nhổ đi. Toản cầm chai rượu đưa cho Dinh, Dinh uống một ngụm rồi đưa cho Sua uống. Trong lúc Sua đang uống thì Dinh kêu đau bụng. Quay sang thấy Sua đang đứng uống, Toản đẩy mạnh vào vai Sua làm Sua ngã ngửa ra sau. Hậu quả, Dinh và Sua chết. Khám nghiệm tử thi kết luận: Dinh chết là do chất độc NaCN gây ra; Sua chết là do đứt tủy cổ không hồi phục.

Sát hại Dinh và Sua xong, Toản lấy 1,25 gam heroin từ số heroin chiếm đoạt được của Dinh và Sua để sử dụng và bị bắt quả tang. Ngày 23/12/2005 công an khám xét đồ vật của Toản, thu giữ 26,6 triệu, một chiếc khăn vải hình vuông và 122,89 gam heroin.

Trong khi chờ TAND tỉnh Lai Châu đưa vụ án ra xét xử, Cứ A Toản đã trốn khỏi nơi giam giữ. Một thời gian sau, Toản đến huyện Thuận Châu, Sơn La sinh sống, lừa lấy được một CMTND mang tên Lò Văn Nam để sử dụng gây ra một số vụ trộm cắp tài sản.

Anh (chị) hãy định tội cho Toản.

 

           

 

NHÓM 8

Vụ án 1

Công an huyện Từ Liêm, Hà Nội đã bắt quả tang một nhóm đối tượng đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa tại phòng 512B, Ký túc xá Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội. Cơ quan công an tạm giữ 12 đối tượng, thu 4.130.000 đồng và một bộ bát đĩa. Bị phát hiện, một số đối tượng đã bỏ chạy, trong đó có Tống Xuân Trường (Sinh năm 1987, quê Hà Trung, Thanh Hoá), là sinh viên năm thứ nhất. Trường đã trèo ra lan can tầng 5, bám vào ống nước định chạy thoát thân nhưng lại bị tuột tay, rơi thủng mái tôn tầng 1, bị chấn thương sọ não, hiện đang cấp cứu tại Bệnh viện E. Công an huyện Từ Liêm làm rõ 4 đối tượng tổ chức đánh bạc gồm Nguyễn Văn Việt (Sinh năm 1987), Trần Tuấn Anh (Sinh năm 1989) ở xóm 6, Đông Ngạc, Từ Liêm; Nguyễn Hữu Trung (Sinh năm 1989) ở Ứng Hòa, Hà Nội và Trần Văn Phúc ở Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Trong số 4 đối tượng kể trên, có Trần Văn Phúc hiện đang bỏ trốn.

Theo tài liệu điều tra, các đối tượng đã sắm cho mình một bộ đồ nghề, sử dụng công nghệ cao gồm một bộ bát đĩa bên trong đĩa có gắn chíp điện tử chụp lại toàn bộ các quân vị. Sau đó hình ảnh các quân vị được truyền đến màn hình của các đối tượng. Nhờ đó, người cầm cái biết trước được các quân bài trong bát là chẵn hay lẻ để biết mà đặt cửa. Hai tên Việt và Phúc được giao nhiệm vụ xóc cái, còn Tuấn Anh và Trung làm nhiệm vụ cò mồi, gạ gẫm các nam sinh viên tham gia. Với hình thức này, bọn chúng đã thu lợi mỗi ngày khoảng vài chục triệu đồng.

Vụ này giải quyết thế nào cho đúng đây ta?

 

Vụ án 2

Tạ Tương Tỉnh tự ý lấn chiếm 75m2 đất thuộc hành lang an toàn lưới điện cao thế để xây dựng nhà trái phép. Quá trình xây dựng, chính quyền địa phương đến lập biên bản yêu cầu đình chỉ, tháo dỡ toàn bộ công trình nhưng Tỉnh không chấp hành. Năm 2004, Tỉnh phá nhà tạm xây dựng nhà kiên cố. Đoàn kiểm tra an toàn thuộc Sở điện lực tỉnh H phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã L, huyện HĐ, tỉnh H đến kiểm tra, lập biên bản về việc xây dựng nhà trái phép, yêu cầu dừng xây dựng, có biện pháp bảo đảm an toàn không để xảy ra tai nạn. Tháng 01-2005, Tỉnh vẫn tiếp tục thuê các anh Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Văn Chúc, Nguyễn Văn Tiếp làm mái tôn che sân thượng để phục vụ sinh hoạt.

Trong khi đang thi công, anh Thông bị điện giật ngã xuống tầng 3, anh Chúc ngã xuống nền đất. Hậu quả anh Thông và anh Chúc bị tử vong. Kết luận giám định pháp y số 67/C2 (P6) ngày 27-01-2005 của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an kết luận: “Nguyên nhân chết của anh Nguyễn Văn Thông do bị điện truyền dẫn qua cơ thể”.

Anh (chị) hãy định tội danh và khung hình phạt cho Tỉnh.

 

 

NHÓM 9

Vụ án 1

            Theo cơ quan điều tra, trước đó vào khoảng 19 giờ, ngày 2/5/2016, Công an phường Tân Phú nhận tin báocó một vụ gây rối trật tự tại khu vực Phú Thắng, phường Tân Phú, quận Cái Răng, Tp. Cần Thơ. Lãnh đạo Công an phường đã cử Thượng úy Lê Quốc Dũng (cán bộ Công an phường Tân Phú) phối hợp cùng một cán bộ Công an phụ trách khu vực trên đến nơi giải quyết.

Khi lực lượng làm nhiệm vụ đến nơi thì phát hiện ông Nguyễn Anh Văn (sinh năm 1964, ngụ khu vực Phú Thắng) trong trạng thái say rượu, gây mất trật tự nơi công cộng. Thượng úy Dũng cùng cán bộ Cảnh sát khu vực khuyên ông Văn không nên gây rối, tuy nhiên ông này bất ngờ cầm cây dao dài khoảng 50cm chém trọng thương Thượng úy Dũng ở vùng cổ. Người dân nhanh chóng cầm máu và đưa Thượng úy Dũng vào bệnh viện Đa khoa Trung ương TP Cần Thơ cấp cứu.

Sau khi chém trọng thương cán bộ Công an phường, đối tượng Văn đã đến chốt dân phòng gần nhà để đầu thú. Tuy nhiên do trước khi đến đầu thú đối tượng đã uống thuốc trừ sâu nên bị hôn mê khi đang khai nhận hành vi phạm tội và được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện.

Anh (chị) hãy giải quyết vụ án này.

 

Vụ án 2

Nguyễn Văn K thành lập một nhóm tội phạm chuyên thực hiện những vụ trộm, cướp sản trên địa bàn tỉnh Z. Nhóm của K bao gồm: Phùng Quốc L, Nguyễn Trần E và hai anh em ruột là Đinh Văn B và Đinh Văn Đ trong đó K là người cầm đầu.Trước khi tiến hành các vụ trộm, cướp tài sản chúng luôn vạch ra kế hoạch chu đáo, chuẩn bị kĩ lưỡng công cụ và phương tiện phạm tội. Sau một thời gian nghĩ ngơi để lẫn trốn công an chúng quyết định đột nhập tiệm vàng Kim Cương để trộm tài sản.

Trước khi thực hiện hành vi trộm tài sản ở tiệm vàng Kim Cương chúng đã bàn bạc kế hoạc kĩ lưỡng, K phân công L và E cắt cửa sắt và đột nhập vào trong để trộm tài sản và K sẽ canh trừng bên ngoài, hai anh em B và Đ có nhiệm vụ canh gác ở hẻm đối diện của tiệm vàng vì đường hẻm này sẽ là nơi bọn chúng tẩu thoát nếu bị truy đuổi, khi phân công nhiệm vụ K dặn dò B và Đ như sau: “Hai đứa bây không được manh động, không cần gây thương tích cho người truy đuổi bọn mình, chỉ cần cản đường không cho họ đuổi theo là được”. Đêm 24/07/2014 chúng thực hiện kế hoạch trộm tài sản ở tiệm vàng Kim Cương, bọn chúng thực hiện như kế hoạch đã bàn nhưng không may cho bọn chúng khi bị lực lượng Cảnh sát trật tự đi tuần tra phát hiện, khi bị lực lượng tuần tra đuổi bắt K, L và E chạy vào đường hẻm mà B và Đ đang chờ sẵn. Khi thấy đồng bọn bị truy đuổi B và Đ đã dùng một số gỗ và bàn ghế đã chuẩn bị sẵn văng ra đường để ngăn chặn lực lượng tuần tra, do không chú ý và nhóm trộm tài sản có chuẩn bị trước nên một đồng chí chạy xe dẫn đầu đã bị ngã, thấy đồng chí này bị ngã B và Đ đã dùng thanh sắt đánh vào người của đồng chí này gây tỉ lệ thương tật 15%.

Hãy định tội và khung hình phạt cho các bị can.

 

           

 

 

NHÓM 10

Vụ án 1

Vì biết được Nguyễn Kim Trí qua làm ăn, kinh doanh tại địa bàn tỉnh Bình Phước có mối quan hệ xã hội rộng rãi với nhiều cán bộ, chiến sĩ công an, nhất là công an huyện Đồng Phú, nên Nguyễn Thị Thuỷ đã đến năn nỉ nhờ “chạy” giùm cho chồng y thị là Đàm Đình Hùng (đang bị tạm giữ để điều tra về tội “cưỡng đoạt tài sản” tại Công an huyện Đồng Phú) được tại ngoại và sắp tới được xử nhẹ, mức “án treo”. Lúc đầu Nguyễn Kim Trí ngần ngại từ chối, nhưng do Nguyễn Thị Thuỷ năn nỉ nên Nguyễn Kim Trí đồng ý giúp đỡ. Hai bên thoả thuận, bước đầu Nguyễn Thị Thuỷ gởi trước cho Nguyễn Kim Trí 10 triệu đồng và sau khi có thông tin chắc chắn về kết quả, Thuỷ sẽ gửi tiếp phần còn lại 60 triệu đồng.

Sau khi được thông báo kết quả từ Nguyễn Kim Trí sau cuộc trao đổi điện thoại với anh Phạm Đức Thiện, đội trưởng CA điều tra huyện Đồng Phú. Sau khi kiểm tra thông tin do Nguyễn Kim Trí thông báo là chính xác, thì Nguyễn Thị Thuỷ tiến hành làm sẵn đơn tố cáo và nhờ người ghi lại tất cả số sơ-ri tiền 60 triệu rồi trực tiếp mang đến giao số tiền này (số còn lại theo thoả thuận) cho Nguyễn Kim Trí và liền sau đó đến cơ quan công an tỉnh Bình Phước xin được gặp Phó giám đốc Công an tỉnh để tố cáo hành vi tiêu cực của Nguyễn Kim Trí. Ngay sau khi nhận tố cáo của Nguyễn Thị Thuỷ, Công an tỉnh Bình Phước đã thực hiện khám xét và bắt khẩn cấp Nguyễn Kim Trí tại nơi cư trú của đương sự.

            Vụ này thật quá bức xúc, cần giải quyết gấp!

 

Vụ án 2

            Trong thời gian phụ trách Trạm xăng dầu số 3 thuộc Cty xăng dầu tỉnh T (từ tháng 7/2003 – 12/2004), Ngô Đức Kế đã có những hành vi sau:

            - Khoảng tháng 7/2003, theo lệnh của Giám đốc Cty, Kế xuất cho Trần Văn Quốc (Trạm xăng dầu số 2) vay 10.000 lít xăng. Khoảng 1 tháng sau, Kế đến Trạm xăng dầu số 2 thanh toán bằng tiền mặt với số tiền là 39 triệu đồng. Số tiền này Kế sử dụng cho cá nhân.

            - Trong quý I/2004, Kế nhiều lần ký phiếu xuất xăng cho một số cá nhân tổng số khoảng 2500 lít.

            - Ngày 16/6/2004, sau khi nhận 5000 lít xăng từ tổng công ty, Kế không cho nhập kho mà bán cho anh Phương thu được 18.200.000 đồng.

            - Ngày 26/6/2004, Kế ký lệnh xuất 1000 lít xăng cho anh Phương thu được 3.800.000 đồng, bán cho anh Dũng 2000 lít thu được 7.600.000 đồng.

            Ngoài ra, trong năm 2004, Kế còn bán cho Trần Quốc 4 bồn đựng xăng cũ của Trạm với giá 1.250.000 đồng/cái.

            Toàn bộ số tiền bán xăng và bồn, Kế đều dùng cho việc ăn nhậu cá nhân, bao gái hoặc cá độ.

            Anh (chị) hãy định tội và khung hình phạt cho kế.

 

 

NHÓM 11

 

 

Vụ án 1:

            Nguyễn Văn Trường là người làm công của nhà chị Nguyễn Thị Bình. Do Trường không có nhà ở nên chị Bình cho Trường ở nhà của mình để trông nôm nhà cửa khi chị đi vắng. Thấy nhà chị Bình có tiền, nhân một lần chị Bình để quên chìa khóa két sắt ở nhà, Trường đã tranh thủ đánh thêm một chìa để dùng. Thỉnh thoảng, khi hết tiền, Trường dùng chìa khóa mở két sắt lấy vài ba trăm xài đỡ. Nhiều lần như vậy nhưng chị Bình không hề biết.

            Cuối năm 2003, Trường có gặp Hoàng Thị Tình, làm nghề uốn tóc, cùng quê với Trường. Hai người yêu nhau và dự định đầu năm 2004 Trường sẽ về quê để cưới Tình. Tuy nhiên, đầu năm 2004, mẹ Tình bệnh phải đưa vào viện. Trường biết tin nên mở két sắt lấy 5 triệu đồng để đưa cho Tình. Tình hỏi tiền ở đâu ra, Trường thành thật nói cho Tình nghe, nhưng Tình không nói gì và lấy tiền đi đóng viện phí cho mẹ.

            Đầu tháng 3/2004, Tình nói Tình cần ít tiền để chuẩn bị cưới. Trường đã mở két sắt lấy 10 triệu đồng đưa cho Tình. Mấy hôm sau, Tình dẫn Trường đi xem một căn nhà ở ngõ H và bảo người ta cần bán gấp với giá 290 triệu đồng và nói Tình đã dùng 10 triệu đồng mà Trường đưa để đặt cọc mua nhà rồi. Trường đã về nhà mở két sắt lấy 30 tờ trái phiếu (10 triệu đồng/tờ) và 50 triệu đồng để đưa cho Tình trả nốt tiền căn nhà và sắm sửa đồ đạc.

            Ngày 14/3/2004, chị Bình đã đến trụ sở công an để trình báo sự việc và được công an điều tra làm rõ.

            Anh (chị) tính sao vụ này? (định tội, định khung cho những người có liên quan)

 

 

Vụ án 2

Vào lúc 20 giờ 45 ngày 23.1.2003, gia đình anh Nguyễn Huy Tịnh (số nhà 120 Chu Văn An, thành phố Buôn Ma Thuột) chủ cửa hàng kinh doanh vàng bạc Huy Toàn (số nhà 120 Chu Văn An, thành phố Buôn Ma Thuột) vừa ăn cơm xong đang ngồi xem tivi thì bỗng thấy tiếng ồn ào ngoài cửa. Chưa kịp định thần đã thấy rất đông người (đi trên 3 chiếc xe ôtô có người vận sắc phục công an) tiến thẳng vào nhà, một số thì  bao vây vòng ngoài. Những người có mặt trong nhà buộc phải ngồi im để nghe công an đọc lệnh khám xét khẩn cấp. Được biết, ông Huỳnh Nên - thiếu tá, điều tra viên Phòng An ninh điều tra tỉnh chỉ huy trực tiếp cuộc khám xét này. Người nhà của anh Tịnh đều phải cởi hết áo khoác để họ khám xét. Toàn bộ vàng nguyên liệu, thành phẩm, tiền mặt và giấy tờ đều bị thu giữ, kể cả số tài sản do cầm đồ cũng bị thu giữ luôn. Sau 10 ngày bị giam  giữ, đến (2.2.2003) thì được tha về theo Quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn số 162  của CA TP. Buôn Ma Thuột, do ông Lương Ngọc Lếp - Trưởng CATP ký. Ngoài số tài sản đã trả lại, hiện nay CA vẫn còn niêm phong máy móc, các phương tiện hành nghề và 15 cây vàng 24k, Khi công an đọc lệnh khám xét khẩn cấp, anh Tịnh có hỏi vì sao lại có cuộc khám xét đột ngột này, anh nhận được lời giải thích vì cửa hàng không có giấy phép kinh doanh. Anh Tịnh xuất trình ngay giấy phép kinh doanh (số 4001170012/ HKD do UBND thành phố Buôn Ma Thuột cấp ngày 11.5.2000) vẫn không được những người thực hiện khám xét chấp nhận. Thời gian sau đó anh Tịnh cũng không nhận được bất cứ quyết định khởi tố hình sự, hay quyết định xử lý vi phạm hành chính nào. Anh Tịnh từng tìm đến các cơ quan chức năng khác, nhưng điều không nhận được sự trả lời nào.

Anh (chị) hãy giải quyết vụ này.

Tác giả: Phạm Văn Beo